Gãy xương gò má là chấn thương thường gặp về răng hàm mặt. Chấn thương này nếu không được điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới thẩm mỹ trên khuôn mặt, đồng thời nó còn gây ra các biến chứng về mắt, thần kinh và chức năng nhai…
Tìm hiểu về gãy xương gò má
Xương gò má là xương chính tạo nên cấu trúc tầng giữa mặt, nó tạo nên hình dáng cho khuôn mặt. Xương gò má có tính chất dày và khỏe, gồm có ba mặt, bốn bờ và ba góc. Xương gò má tiếp xúc với 4 xương là: xương thái dương, xương trán, cánh lớn xương bướm và xương hàm trên. Tiếp khớp bằng bốn khớp làkhớp bướm gò má, khớp trán gò mávà khớp thái dương gò má.
Xương gò má là nơi bám của các cơ mặt, góp phần tạo nên sàn, thành ngoài ổ mắt, vì thế nếu xương gò má bị chấn thương sẽ gây ảnh hưởng tới các chức năng của mắt. Các dây thần kinh mặt, dây thần kinh hàm… cũng liên quan chặt chẽ tới xương gò má.
Xương gò má bị gãy sẽ là chấn thương nguy hiểm cho vùng mặt, gây đau nhức và ảnh hưởng tới thẩm mỹ của khuôn mặt. Đồng thời tác động tới các chức năng của hàm, mặt, tai, mũi, mắt.
Chấn thương gãy xương gò má có đặc điểm gì?
Thông thường khi bị gãy xương gò má sẽ có những đặc điểm:
- Khuôn mặt người bệnh bị sưng, biến dạng một bên, lõm vùng gò má, sưng và bầm tím vùng dưới xương gò má và xung quanh mắt.
- Xuất hiện hiện tượng nhìn một thành hai, khi nhìn mọi thứ bị mờ, không rõ ràng.
- Bị hạn chế khi cử động há miệng và cảm thấy bị đau nhức, khó chịu.
- Niêm mạc xoang sàngbị tổn thương gây chảy máu mũi.
- Vùng răng hàm bên gãy xương bị tụ máu ở nghách lợi.
- Đuôi mắt bị kéo dài, gây kết mạc tụ máu
- Ấn vào thấy bị đau nhói.
Khi bị chấn thương gãy xương gò má, nếu không điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới vấn đề thẩm mỹ, ngoài ra còn có thể để lại di chứng nặng nề như: lạc mi mắt ngoài, lõm mắt, song thị, mất cảm giác vùng dây thần kinh… gây ảnh hưởng tới sức khỏe người bệnh, làm giảm chất lượng cuộc sống.
Có cần phẫu thuật khi bị gãy xương gò má?
Một trong các chấn thương răng hàm mặt phức tạp nhất chính là gãy xương gò má. Mỗi trường hợp khi bị gãy xương gò má cần được chẩn đoán, nghiên cứu để đưa ra phương pháp điều trị tối ưu nhất.
Khi xương gò má bị gãy, nguyên tắc điều trị đầu tiên là phải nắn chỉnh, đồng thời cần cố định lại xương gãy và ngăn ngừa các biến chứng có thể xảy ra. Điều trị tích cực để phục hồi chức năng và đảm bảo vấn đề thẩm mỹ cho khuôn mặt người bệnh.
Người bệnh khi bị gãy xương gò má sẽ được bác sĩ khám lâm sàng, chẩn đoán thông qua hình ảnh cận lâm sàng và đưa ra phương pháp điều trị phù hợp cho từng bệnh nhân.
Trường hợp ít di lệch thì không cần phẫu thuật mà chỉ cần nắn chỉnh để phục hồi lại đường viền và kích thước ổ mắt để ổ mắt được gải phóng khi các dây thần kinh chèn ép, đồng thời phục hồi chức năng của nhãn cầu – mi mắt.
Một số dụng cụ được dùng để nắn chỉnh xương gò má bị gãy mà không cần phẫu thuật như:
- Dùng một sonde sắt đưa xuyên qua mũi xoang và đi vào trong xoang để nắn xương gò má bị gãy.
- Dùng cây bóc tách đi vào đường miệng, qua ngách tiền đình và nắn xương gãy.
- Rạch một đường ở vùng thái dương, cách đường chân tóc 5-6mm lên phía trên, sau đó sử dụng cây bóc tách luồn xuống để nắn xương gò má gãy.
- Móc loại lớn được sử dụng xuyên qua da, luồn dưới thân xương rồi kéo nắn vùng xương gãy.
- Tùy theo di lệch mà có thể dùng nhiều phương pháp phối hợp để nắn xương gãy. Tuy nhiên trong quá trình nắn phải kiểm soát được lực nắn tránh cho xương gò má bị bật ra ngoài.
Phương pháp phẫu thuật khi xương gò má bị gãy
Bệnh nhân sẽ được phẫu thuật xương gò má trong trường hợp xương gò má gãy bị di lệch nhiều. Bác sĩ sẽ phải rạch da và niêm mạc, để tiến hành nắn chỉnh các xương gãy về đúng vị trí giải phẫu ban đầu, sau đó dùng chỉ thép phẫu thuật hoặc nẹp vít nhỏđể cố định xương. Trường hợp phức tạp hơn sẽ được cố định bằng cung móc. Sau đó dùng kháng sinh toàn thân điều trị cho bệnh nhân để chống viêm và giảm đau.
Như vậy, khi bị gãy xương gò má nếu được chẩn đoán, điều trị kịp thời và đúng kỹ thuật, sẽ đảm bảo được tính thẩm mỹ cho khuôn mặt, đồng thời giúp phục hồi tốt các chức năng. Vì thế ngay khi gặp chấn thương gãy xương gò má, người bệnh nên đi khám bác sĩ để được thăm khám, chẩn đoán giúp việc điều trị đạt kết quả tốt nhất.